AcDieu225
Co Vang amazon Tammy

Free Hit Counters
Web Site Hit Counters

Ac Dieu

ImageProxy.gif

 

GÒ CÔNG,

NƠI PHÁT TÍCH CÁC DÒNG HỌ QUÝ TỘC

Nguyễn Phú Long


Gò Công  là nơi phát sinh các dòng họ Phạm, họ Nguyễn, đều là ngoại thích các triều vua cận đại.

Theo thuyết phong thủy, địa lý xưa, ông bà chúng ta rất quan tâm đến cuộc đất an táng mồ mả của tổ tiên. Chính cuộc đất ấy là đã quyết định vận mạng của dòng họ, cải đổi từ cuộc sống lam lũ trở lên hàng công hầu, khanh tướng. Nếu ở miền Bắc có Bắc Ninh, Thiên Trường là nơi phát sinh các vua nhà Lý (1010- 1225), nhà Trần (1225-1400), miền Trung có Tống Sơn, Thanh Hoá là đất quý hương của các vua nhà Nguyễn, thì Gò Công ở Nam Kỳ cũng là nơi khởi nghiệp các dòng quý tộc, ngoại thích các vua thời cận đại.

Vào năm 1834, bắt chước cách tổ chức hành chánh của nhà Thanh, vua Minh Mạng cho đổi tên “trấn” thành “tỉnh”, rồi lập thêm tỉnh mới An Giang, như vậy Nam Kỳ lục tỉnh ra đời từ lúc đó Huyện Tân Hoá gồm phần đất thuộc tỉnh Gò Công hiện nay, mặc dầu nằm sát nách Định Tường, nhưng được sáp nhập vào tỉnh Gia Định do tình cảm và ý muốn của vua Thiệu Trị. Khi ký hàng ước 1862, cắt phân nửa Nam Kỳ nhường cho Pháp, trong đó có Gò Công, vua Tự Đức buồn rầu mất ăn mất ngủ mấy tháng liền. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ khi triều đình bất chấp mọi tốn kém, gửi sứ giả (Phan Thanh Giản) qua Pháp điều đình xin chuộc lại. Năm năm sau, Pháp xua quân chiếm 3 tỉnh miền Tây còn lại. Bất chấp mọi tư cách pháp lý, Pháp tự ý chia Nam Kỳ thành những đơn vị hành chánh nhỏ (lúc đó gọi là sở tham biện) để cho dễ kiểm soát.

Về sau, Pháp đổi “Sở tham biện” thành “hạt” rồi “tỉnh”. Ba tỉnh Tân An, Gò Công, Mỹ Tho là do tỉnh Định Tường cũ tách ra. Ngay khi mới chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Gò Công, nhờ vị trí hiểm yếu, nhiều sông rạch chằng chịt, giao thông trắc trở, lại thêm rừng rậm hoang vu đã trở thành những cứ điểm kháng chiến cho các lãnh tụ Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, tri huyện Đỗ Trình Thoại...

Với non 30 km bờ biển, nép mình trên biển Đông Hải, tỉnh Gò Công nằm lọt trong lưu vực sông Vàm Cỏ, phía Bắc giáp tỉnh Chợ Lớn (huỷ bỏ sau năm 1945) trù phú và tỉnh Tân An lặng lẽ, phía Nam dựa vào tỉnh Mỹ Tho. Hai sông Cửa Tiểu, Cửa Đại (Tiền Giang) làm ranh giới thiên nhiên giữa Gò Công với Bến Tre, tỉnh Gò Công chiếm một diện tích khiêm nhường khoảng 600 km2. Hai sông Vàm Cỏ Đông (còn gọi là sông Bến Lức) và Vàm Cỏ Tây (còn gọi là Tân An hay Vũng Gù) phát nguyên từ biên giới Miên Việt, chạy qua Đồng Tháp Mười sình lầy, đun lát ngập phèn, nên dòng nước trong xanh nhìn thấy dưới đáy. Tới vị trí Bần Quỳ (cây bần ngả có vị thế như người đang quỳ gối) thuộc quận Cân Đước, tỉnh Vĩnh Long, thì cả hai sông hợp lại chảy qua địa phận Gò Công, Vàm Láng, đổ ra cửa Soài Rạp. “Soài Rạp”, sử cũ gọi “Lôi Lạp” là đất trước đây thuộc vương quốc Phù Nam (thế kỷ thứ 1 đến thứ 6 sau Tây Lịch), rồi sáp nhập vào Thuỷ Chân Lạp, tiền thân của Cao Miên ngày nay.

Tâm Bôn là đất Long An ngày nay. Chỗ hợp lưu hai sông: Bần Quỳ, còn nhắc lại sự tích ông Mai Bá Hương làm chức Xà-sai-ty dưới thời các Chúa Nguyễn ở Nam Hà, trên đường vận lương tiếp viện (1705), khi biết thuyền lương sắp rơi vào tay giặc, bèn ra lịnh đục thủng thuyền và chết theo thuyền. Để kỷ niệm và lưu truyền cái chết của trung nghĩa ấy, dân chúng gọi chỗ này là “sông Xá Hương”. Theo các thương nhân đi ghe thương hồ xuôi ngược Sài gòn về miền Tây và ngược lại, mỗi lần qua miễu Bần Quỳ, thường hay bị cướp chặn đường. Một nữ tướng cướp nổi danh hồi nửa thế kỷ trước đây còn gọi “Bà Nở” nghe đâu là con gái ông Quản Xô, cựu nghĩa binh thất trận về hùng cứ nơi đây. Hai bên bờ sông Vàm Cỏ từng in dấu vết chân của nghĩa quân Trương Công Định, Thủ Khoa Huân qua lại nhiều lần. Những địa danh như Trường Bình, Vàm Bao ngược, đám lá tối trời, đồn Kiểng Phước... đều nhắc lại những sự kiện lịch sử, những chiến công của nghĩa quân kháng Pháp hồi cuối thế kỷ 19:

 

Trên trại đồn điền hoa khóc chủ,

Dưới Vàm Bao ngược sóng kêu oan!

(Nguyễn Đình Chiều)

 

Dõi theo bước Nam tiến, ông bà ta tới vùng đất mới thường chọn những giồng đất cao lập nghiệp: Gò Sơn quy, Gò Khổng tước Gò Tre, Gò Cát, giồng ông Huê, giồng Tháp, giồng ông Nâu... Cuối thế kỷ 19, Gò Công còn hoang vu, nhiều lùm bụi, chưa khai phá. Dọc theo bờ biển từ Vàm Láng xuống Tân Thành, Cửa Tiểu, là những rừng cây ngập mặn như đước, vẹt, xú, lá dừa đầy đặc, che khuất, kín đáo. Vì lẽ đó, các cuộc khỏi nghĩa chống Pháp của các sĩ phu miền Đông, sau khi thất bại đều rút về Gò Công để củng cố binh lực.

Khi những đợt di dân đầu tiên từ miền ngoài tới đây hồi cuối thế kỷ 17 tìm nơi cao ráo, nơi sông sâu nước chảy dựng nhà, phá rừng làm rẫy, làm ruộng. Địa danh “Gò Công” còn nhắc lại sự tích, một địa thế thiên nhiên “Gò đất cao ráo, có nhiều chim công làm ổ, sanh sôi nẩy nở từ thế hệ này qua thế hệ khác”. thuở đó, Gò Công chưa có đường bộ. Mọi việc giao thông, chuyên chở, đi lại đều dùng thuyền, tam bản, xuồng ba lá và ghe chài. Sông Tra, nối liền với sông Vàm Cỏ, là thuỷ lộ quan trọng giúp người Gò Công qua lại Tân An, Thủ Thừa, Mỹ Tho, lên Chợ Lớn, Sài gòn...

Vua Tự Đức (1848-83) cho đắp “con đường sứ” nối từ Gia Định xuống giồng Sơn Quy để liên lạc với quê ngoại. Người lớn tuổi ở đây thường nói rằng “nghe ông bà kể lại hồi đắp con đường này, bắt dân chúng phục dịch lao khổ để phá rừng, đào mương đáp lộ, bắc cầu trong hoàn cảnh đất đai hoang vu đầy muỗi mòng, rắn rít, thú dữ và sơn lam chướng khí, nên bị bịnh và chết rất nhiều”. Giữa thế kỷ 20, di tích “con đường sứ”, vẫn còn, là con đường trải đá nối tỉnh lỵ Gò Công ra bến Bắc Mỹ Lợi để đi Cần Giuộc, Chợ Lớn. Nhờ con đường sứ, nhiều công văn, tin tức liên lạc với quý tộc họ Phạm, được liên tục. Ngày nay, “con đường sứ” đã trở thành liên tỉnh lộ 5, nối Gò Công với Chợ Lớn, qua phà Mỹ Lợi.

Theo bản đồ hành chánh Nam Kỳ vào năm 1939, Gò Công có 5 tổng và 40 làng. Lúc đó, địa danh “quận” chưa xuất hiện. Nhiều tên tổng và làng còn tồn tại tới ngày nay như Hoà Đồng hạ, Hoà Đồng trung, Hoà Đông hạ... Tới những thập niên đầu thế kỷ 20, Gò Công hình thành các chợ ở đầu mối giao thông đường thuỷ, có những cửa hàng buôn bán cố định thay vì buôn gánh bán bưng và họp chợ phiên như trước kia ở Trung và Bắc. Chợ tỉnh lỵ Gò Công, có từ năm 1897. Về mặt giáo dục, cùng năm đó, Pháp mở trường tổng tại tỉnh lỵ và 4 tổng khác trong tỉnh, đặt tại các làng Tân Niên Tăng, Tăng Hoà, Vĩnh Lợi và Đồng Sơn.

Đến năm 1939, Gò Công bắt đầu phát triển các chợ: phố xá buôn bán sầm uất. Hàng hoá trao đổi lưu thông dồi dào. Theo quyển “Cẩm nang thời sự năm 1939”, Gò Công có các chợ sau:

 

- Chợ Giồng ông Huê (làng Vĩnh Lợi)

- Chợ Tổng Châu (Tân Niên Tây)

- Chợ Cửa Khâu (Tăng Hoà)

- Chợ Giồng Nâu (Hoà Nghị)

- Chợ Sáu Toàn (Bình Luông Đông)

- Chợ Giồng Trộm (Long Thạnh)

- Cho Mỹ Lợi (Bình Thạnh Đông)

- Chợ Câu Ngang (Thạnh Nhứt)

- Chợ Vàm Láng (Kiểng Phước)

- Chợ Bến Vựa (Bình An)

- Chợ Bình Xuân (làng Bình Xuân)

- Chợ Dinh (làng Đồng Sơn).

 

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà (1955-1963), tỉnh Gò Công sáp nhập vào tỉnh Định Tường. Năm 1963, Gò Công tách riêng thành lập tỉnh cũ như dưới thời Pháp thuộc, gồm 4 quận, đều bắt đầu bằng chữ “Hoà” như Hoà Tân, Hoà Lạc, Hoà Đồng, Hoà Bình...


Căn cứ theo gia phả của bà Từ Dụ Thái hậu (1810-1902) thì tổ tiên bà từ Quảng Ngãi vào lập nghiệp tại Gò Công, thì vùng này hồi đó là sình lầu, rừng bụi hoang vu, chạy thẳng ra tới mé biển... Những chỗ trũng, thấp, nằm giữa các giồng đất được khai phá thành từng khoảng để làm ruộng, làm rẫy theo kiểu “tầm ăn lá dâu”. Hồi trước chỗ nhiều đun, lát, bùn, lầy gọi là “thảo điền”. Theo ông già bà cả kể lại rằng vùng này hồi trước nắng khô, nứt nẻ, nhiều hố sâu. Đến khi mưa xuống, nước ngấm vào, đất mềm mới cày bừa làm ruộng được. Mỗi lần cày ruộng, phải lùa trâu đực, móng chân cao cho khỏi mắc lầy, nếu không nhiều con trâu bị lún xuống bùn đi không nổi.

Đọc lại quyển “Địa bạ tỉnh Định Tường” viết từ thời Minh Mạng (1820-40) do ông Nguyễn Đình Đầu dịch và in năm 1994, chúng tôi thấy phần lớn đất đai ở Gò Công (giáp Định Tường) phần lớn do phụ nữ giữ quyền sở hữu. Điều đó chứng tỏ hồi xưa vai trò người phụ nữ thực sự nắm quyền sở hữu ruộng đất, quản trị kinh tế gia đình, là một nét đặc biệt trong vùng đất mới, xa kinh đô.

Muốn hình dung lại khung cảnh, sinh hoạt của Gò Công vào đầu thế kỷ, chúng tôi phải tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Rất may mắn, chúng tôi nhiều lần được hầu chuyện cùng các vị cao niên hồi còn bên trại tỵ nạn và ngay trên đất Mỹ thuộc lớp “cổ lai hy”, trong đó có những người họ Phạm, họ Nguyễn thuộc hạng danh gia thế tộc tại Gò Công nhiều đời. Chúng tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn ông cựu giáo sư Trần Văn Mạnh đã tặng quyển “Gò Công cảnh cũ người xưa” do tác giả Việt Cúc biên soạn rất quý.

Viết về Gò Công, chúng tôi tránh thói quen “lối mòn để đi”. Với chủ trương tân kiếm phát kiến những điều mới lạ, chúng tôi tìm tòi, ghi chép những chuyện xưa tích cũ mà chúng tôi có dịp nghe thấy, cũng những tài liệu rời rạc trong sách báo cũ mới. Nhờ đó chúng tôi có khá đầy đủ về “Trận bão năm Thìn (1904)”, chuyện Cậu Hai Miêng là những biến cố, những đề lài thời sự hấp dẫn trên dưới một thế kỷ nay. Dĩ nhiên những tài liệu ghi chép, hay “những quyển tự điển sống”, kể lại không có dịp được kiểm chứng, phán đoán, đánh giá như một người viết sử. Chúng tôi chỉ làm công việc của người kể chuyện mua vui cho độc giả mà thôi.

Cho tới những năm nửa đầu thế kỷ 20, Gò Công vẫn còn là một chỗ xa xôi, biệt lập vì địa thế cách trở, mặc dầu nó chỉ cách Sài gòn, Chợ Lớn chừng 50 Km đường chim bay.
Ở miền Nam, ngoài Thủ Đức là quê hương quý tộc họ Hồ (Bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng), thì Gò Công được các vua nhà Nguyễn đặc biệt chiếu cố. Hoàng đế Bảo Đại là vị vua đầu tiên và duy nhứt vào Nam nhiều lần, có đến thăm quê vợ Gò Công vào năm 1942. Ở đây nhiều dòng họ dược phong tước hiệu và đất ruộng theo chính sách thời phong kiến: cứ mỗi lược (công, hầu, bá, tử...) đều kèm thêm một sở đất, ruộng, để ăn lộc và con cháu thờ phượng. Trong một chỉ dụ trong Đại Nam Hội Điền có ghi:

“Nay trẫm theo chỉ xưa, nhớ người có công, nghĩ đến người có công lớn thì phải báo đáp, vậy gia ơn ruộng đất cấp cho họ làm tự điền, để con cháu đời đời giữ lấy cày cấy, tế lễ, chi dụng đèn nhang, làm cho sự ban thưởng được kéo dài về đời sau, tỏ cái ý ưu đãi và thương xót công thần”.

Dưới chế độ nhà Nguyễn, ngoài “con đường sứ” nối từ Gia Định về Gò Công, tất cả mọi sự giao thông khác trong vùng, phải vận chuyển bằng đường thuỷ, Từ Gia Định về Gò Công, các ghe thuyền từ sông Vàm Cỏ rẽ vào sông Tra, vào rạch Băng đến Bình Xuân trước khi tới tỉnh lỵ Gò Công. Hồi đó các ghe chở gạo, ghe cá, ghe củi chạy buồm từ Gò Công qua vàm Bao Ngược (vượt sông Vàm Cỏ) để qua Cần Giuộc về Chợ Lớn. Từ phía Mỹ Tho đi Gò Công thường phải theo sông Cửa Tiểu vô vàm Giồng, tới rạch Vểnh Lợi, tiếp qua rạch Gò Công. Đường bộ nối Gò Công với các tỉnh và Chợ Lớn mới thành hình từ thập niên 1930 đều phải qua bắc: Bắc Chợ gạo nối Gò Công với Mỹ Tho, bắc Mỹ Lợi nối Gò Công với Cân Giuộc, Chợ Lớn. Từ bắc Chợ Gạo, xe đò phải chạy tiếp tới Thanh Thuỷ, Thạnh Nhựt, Gò Bầu trước khi vào tỉnh lỵ Gò Công... Vì nằm trệch thuỷ trình về miền Tây và quốc lộ số 4, tỉnh lỵ Gò Công chưa bao giờ phát triển sung túc, sầm uất như Mỹ Tho, Cần Thơ. Con đường quan trọng nhứt trong tỉnh lỵ chạy từ Yên Luông Đông xuống chợ, phải qua một cây cầu bắc ngang con rạch nhỏ, phía trên lăng mộ của Đại tướng Trương Công Định. Lâu ngày, con rạch này cạn dần phải lấp đi, để mở rộng châu thành, và từ đó chỗ này gọi là “đường kinh lấp”, nay là đường Phạm Đăng Hưng. Sách “Cảnh cũ người xưa”, tác giả Việt Cúc là người cố cựu đất Gò Công kể lại:

 

“Như đường Sơn Quy vào chơ, phải qua cái cầu ngang, nằm phía dưới nhà Bà Phước sau này gọi Cầu Phủ. Bên chợ đi qua bên vựa cây lá, củi rào, đến đồn trân cũ, phải qua cái cầu ngang khác, nằm gần trường Nam Tiểu Học bây giờ, gọi là Cầu Quan. xóm Ngã Tư, từ phía dưới lộ me lên chợ, phải qua Cầu Huyện. Bình Công đi qua chợ, có cầu dọc ở phía trên gọi là cầu Lông Chiên (sau gọi là Long Chánh). Bên chợ thì cạn, nhiều bùn lầy, chạy từ cầu Long Chánh đến Cầu Phủ, gần cầu mới Tân Ban Nha. Những thuyền, tam bản từ các nơi về đậu ở bên chợ dỡ hàng lên bán như. gạo, củi, cây lá, tre, dừa chuối, khoai bắp, cùng súc vật gà heo... Thỉnh thoảng có một ít ghe thuyền từ Cần Giuộc hoặc Định Tường đến mua gạo, gà heo... chở đi bán các nơi khác...”. (Sách đã dẫn, trang 5).

 

Kinh Chợ Gạo, làm ranh giới cho hai tỉnh Gò Công, Mỹ Tho là đường thuỷ chiến lược nối từ sông Cửa Tiểu qua sông Vàm Cỏ. Kinh này được đào dưới thời Thống đốc Dupré, nên dược gọi “Canal Dupré”, rút ngắn thuỷ trình chuyên chở lúa gạo từ miền Tây về Chợ Lớn để thay thế cho kinh Bảo Định vừa hẹp vừa cạn. Kinh Chợ Gạo được đào ròng rã 2 tháng, vét một triệu mét khối đất, đấp cao hai bên bờ để làm lộ xe đi lại. Ngày ăn lễ lạc thành tổ chức hết sức trọng thể. Những nhà ở hai bên bờ kinh có treo cờ, giăng đèn, kết hoa, làm cổng chào và dặt bàn hương án. Chính Đô đốc Dupré, Thống đốc Nam Kỳ đến tham dự như một thách thức những sĩ phu đang ngưỡng vọng triều đình, cho rằng Pháp sắp bỏ miền Nam. Khi chiếc tầu sắt chở Dupré vừa đào kinh, hai bên có lính mã tà cỡi ngựa đi song song. Lại có thả khinh khí cầu để khoa trương kỹ thuật Tây phương. Hai năm sau, số lượng lúa gạo chở lên Sài gòn gia tăng gấp đôi, gấp 3 lần. Vào những năm cuối thế kỷ 19, hàng ngày có hàng trăm ghe chài qua kinh Chợ Gạo. Dọc theo thuỷ trình về miền Tây trong phạm vi tỉnh Gò Công có nhiều chỗ giáp nước, những vị trí thuận lợi được hình thành các chợ để ghe thương hồ ghé mua bán, trao đổi hàng hoá như Chợ Gạo, chợ Mỹ Lợi, chợ Trường Bình. Hồi năm 1949, tôi được thân phụ cho theo ghe chài chở lúa từ Vũng Liêm về Chợ Lớn, tôi đếm được 24 cái chợ lớn nhỏ nằm trên thuỷ trình ghe chúng tôi đi ngang qua! Vàm Bao Ngược, thường có sóng lớn vào buổi chiều, thường gây mối ám ảnh cho các ghe thương hồ lục tỉnh. Câu hát xưa còn nhắc:

 

Anh đi ghe lúa Gò Công

Vô vàm Bao Ngược, bị giông (gió lớn) đứt buồm!

 

Vàm Bao Ngược là chỗ nhận chìm biết bao nhiêu ghe xuồng qua lại mỗi khi chèo ra giữa sông bị sóng gió nổi lên thình lình. Chỗ khúc sông này tạo ra nhiều thảm cảnh thương tâm cho những người sống trên sông nước:

 

Thuyền anh cao, nhưng sóng cả nhận chìm,

Em trông sông bao nhiêu khúc, nỗi niềm ruột đau.

Hò... ơi!

 

Vàm Bao Ngược là chỗ gặp gỡ của các dòng nước: nước sông Vàm Cỏ từ Tân An, Bến Lức đổ ra, kinh Chợ Gạo từ Mỹ Tho chảy xuống hợp với sông Tra từ Gò Công, tạo ra một khúc sông sâu, rộng minh mông. Bên này vàm Bao Ngược là bến phà (bắc) Mỹ Lợi đưa các xe đò, xe hàng và hành khách qua sông để đi Cần Giuộc, Chợ Lớn. Vì khúc sông nguy hiểm, nên mỗi lần sắp qua sông, bạn chèo ghe phải sửa soạn dầm, chèo, quai chèo, buồm cho vững chắc. Vàm Bao Ngược cũng là khúc sông lịch sử. Sau khi hạ đồn Kỳ Hoà (Chí Hoà), Pháp xua binh xuống đánh Mỹ Tho (lúc đó gọi là Định Tường). Các chiến thuyền theo cửa Sói rạp vô vàm Bao Ngược, rẽ vào sông Tra đánh Gò Công. Nghĩa quân của ta mai phục sẵn, đắp những mô đất cao tại dập Bà Thái, phía ngoài Bình Xuân chống trả mãnh liệt”. Vượt vàm Bao Ngược đã tới cửa ngỏ “đất kinh kỳ”. Nửa thế kỷ trước, đi ghe thường phải chèo hoặc chạy buồm nhờ sức gió, không có máy móc nhiều như bây giờ, do đó bạn chèo rất mệt mỏi, trông cho mau tới chỗ để được nghỉ ngơi, ăn uống, mua sắm và đợi con nước để tiếp tục lên đường.

Hồi trước, ghe thương hồ xuôi ngược lục tỉnh phải qua Chợ Đệm, nằm ở phía dưới cầu Bình Điền ngày nay. Qua khỏi Bến Lức, men theo con nước thuận, các ghe chèo luôn một mạch tới “ba Cụm”. Tại chỗ này là nơi giáp nước: sông Chợ Đệm chảy ra, sông Bến Lức chảy vào. Hai dòng nước gặp nhau, là cái bến tạm để ghe xuồng đậu nghỉ, chờ con nước sau. Ba Cụm nổi danh với “bối”, một thứ ăn cắp vặt trên sông. Theo kinh nghiệm, những người chèo ghe theo nước lớn vô Ba Cụm, phải “canh” làm sao cho khi vừa tới chỗ giáp nước, thì nước phía bên kia cũng “giựt ròng”, để chèo luôn cho nhẹ. Các ghe buôn từ lục tỉnh, mỗi lần qua Chợ Đệm thường ghé lại mua đệm may buồm, mua bao cà ròn, mua nóp để ngủ thay mùng.

“Ghe Cần Đước” một thời nổi tiếng cả Nam Kỳ, có mũi quệt cao, cản nước, đi chậm, cặp mắt xách ngược như mắt Quan Công. Tương truyền ghe Cần Đước do thợ người Minh Hương, con cháu đám di thần nhà Minh Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn ở Vũng Gù, Cù Úc, Mỹ Tho đóng. Ghe chài Cần Đước đi từ từ, đi tới đâu cũng nhìn thiên hạ như thách thức, du côn! Khi việc chuyên chở đường sông còn thạnh hành, bạn chèo ghe chài Cần Đước thường là dân tứ chiếng, giỏi võ nghệ. Một lần đoàn ghe chài Cần Đước “đụng” với đám cướp ở Tân Châu để cứu giá đoàn ghe thương hồ lục tỉnh, làm cho giới sống trên sông nước miền Nam còn nhớ mãi.

 

BÀ TỪ DỤ

Như ai nấy đều biết, thành phố Sài-Gòn Việt-Nam có hai bảo sanh viện công lập. Một ở góc đường Hồng-Thập-Tự và Cống-Quỳnh; một ở trên đường Hùng-Vương  trong vùng Chợ-Lớn, từ Ngã Sáu đi qua khỏi trường trung học Chu-Văn-An mới tới, nó nằm ngay ở bên phía tay phải.

Vì tọa lạc trên đường Hùng-Vương nên cơ sở tương đối mới mẻ này, thành  lập năm 1956, được đặt tên là Bảo Sanh Viện Hùng-Vương. Còn bảo sanh viện về phía Sàigòn lâu đời hơn đã hân hạnh mang mỹ hiệu TỪ-DŨ (1) Một phần danh  xưng cao quý nhất của bà Phạm-Thị-Hằng, quý phi của vua Thiệu-Trị, nguyên quán tỉnh Gò-Công nam phần, do vua Đồng Khánh tôn phong nhân dịp lên ngôi năm 1885.

Nam phần là một vùng đất rất được cảm tình của các vua chúa nhà Nguyễn. Điều đó cũng dễ hiểu. Từ lúc thiếu thời, Thế Tổ nhà Nguyễn đã lưu lạc vào nam, đích thân cầm quân, lênh đênh trên các sông rạch, trăng nước Đồng-Nai, giòng giã trong hai mươi bốn năm, kể từ năm 1778, mới dứt hẳn nhà Tây-Sơn, thu phục đất đai cũ của tổ tiên khi xưa, rồi hợp cả nam bắc về một mối, đặt quốc hiệu là Việt-Nam, chọn kinh đô Phú-Xuân (Huế bây giờ), xưng đế hiệu Gia-Long,ngụ ý đã thống nhất sơn hà từ Gia-Định tới Thăng-Long.

Có lẽ chính do sự gần gũi ấy, sự quen thuộc ấy mà nhân tài gốc miền nam được trọng dụng, Cây trái miền Nam được ưa thích, người đẹp miền Nam được ân sủng. Riêng tỉnh Gò-Công có tới ba bà hoàng-hậu. Bà Đinh-thị-Hạnh ở Tân-Hòa Gò Công lấy Thiệu-Trị rồi sau đó lại giới thiệu cháu mình là cô Phạm-thị-Hằng, con thượng thư Phạm-Đăng-Hưng (2). Còn một bà hoàng-hậu nữa quê quán Gò Công đó là bà Nam Phương lấy vua Bảo-Đại sau này. Nam-Phương Hoàng Hậu la tên do Phạm Quỳnh đặt ra, chính tên của hoàng hậu này là Mariette Jeanne Nguyễn-Hữu-Hào tức Nguyễn thị Hữu Lan, cháu ngoại nhà giầu số một Nam Kỳ cuối thế kỷ 19 là ông Huyện- Sĩ Lê Phát-Đạt (Nhất  Sĩ, nhì Phương, tam Xương, tứ Định.)

 

Phạm-thị-Hằng (Từ-Dụ) sinh ngày 19 tháng 5 năm Canh-Ngọ (1810) quê quán giồng Sơn-Quy, Gò Công. Thượng thư Phạm-Đăng-Hưng đặt tên cho con gái là Hằng vì đang lúc lâm bồn bà mẹ đã như thấy một vầng trăng thật lớn từ trên trời sa xuống đất.

Phạm-thị-Hằng "về miền Trung" từ năm 14 tuổi, chắc chắn là rất lưu luyến nơi chôn rau cắt rốn. Thỉnh thoảng người ta gửi ra cho bà ít hũ mắm tôm xay, một đặc sản của Gò-Công để bà thưởng thức và cũng để hãnh diện làm món quà vương giả tặng người xa lạ. Bà thọ tới năm 93 tuổi, mất ngày mồng 5 tháng 4 năm Tân Sửu, là một người đàn bà hiền đức, thông hiểu sử sách, biết nhiều việc đời, có ảnh hưởng phần nào đến vua Tự-Đức vì Tự-Đức là con-trai-bà-một-lòng-hiếu-thảo, và bà thì hiện diện trong suốt thời gian trị vì của vị vua này lâu tới 36 năm.

Như đã nói trên, bà "lấy" Miên-TÔng là con trưởng vua Minh-Mạng và bà Thuận-Đức-Nhân Hoàng-Hậu Hồ-thị-Hoa, con gái Hồ-Văn-Vui nguyên quán Thủ-Đức Gia-Định.

Tiện đây xin nói thêm, tên bà Thuận-Đức-Nhân Hoàng-Hậu cũng là nguyên do một hai thay đổi. Sau điện Thái-Hòa trong Tử Cấm Thành có một cái sân lát đá, hai bên dựng hai cửa phượng môn, bên tả là cửa Nhật-Tinh, bên hữu là cửa Nguyệt-Anh, cửa  này xưa gọi là cửa Nguyệt-Hoa, từ năm Thiệu-Trị thứ nhất vì kiêng chữ Hoa nên mới đổi ra là Nguyệt-Anh.  Cũng cùng một lý do như thế, chợ Đông-Ba ở hữu ngạn sông Hương, ngay chân cầu Tràng-Tiền, trước tên là Đông-Hoa sau phải đọc trại ra là Đông-Ba vì kiêng tên bà Hồ-thị-Hoa.

Đó là tại Kinh-Kỳ, Ở đàng trong chuyện kỵ húy này cũng ảnh hưởng, tuy ít hơn. Theo cuốn Sàigòn năm xưa của Vương-Hồng Sển thời gian những năm 1815 thì cầu Bông trước kia gọi là cầu Cao-Mên sau đổi ra cầu Hoa vì đây có hoa viên của tả quân Lê-Văn-Duyệt, nhưng rồi người ta lại thấy vì trùng tên một bà phi tần của vua Minh-Mạng nên gọi cầu Bông cho đến ngày nay.

Hoàng tử Miên-Tông sinh năm Bính Dần (1806) vừa chào đời được 13 ngày thì mẹ chết vì bệnh hậu sản. Bà nội là Thuận Thiên Cao Hoàng-Hậu thương cháu đích tôn sớm côi cút, đem về tự tay nuôi dưỡng, dậy dỗ trong cung …chính bà Thuận Thiên Cao chọn vợ cho cháu mình, cô Phạm-thị-Hằng được bà triệu vào hầu hoàng tử Miên Tông tức vua Thiệu-Trị sau này.

Qua bốn mùa xuân đầu tiên sống ở kinh thành Huế bà sinh hoàng tử Hồng-Nhậm, (3) nhưng mãi tới năm 1841 khi Miên-Tông lên ngôi đặt niên hiệu là Thiệu-Trị bà mới được phong làm cung tần, hai năm sau cất nhắc lên làm thứ phi, qua đầu năm Thiệu-Trị thứ sáu bà trở thành quý phi rồi hoàng quý phi là hàng cao nhất trong cửu giai biên chế của các triều nhà Nguyễn. Đến khi Thiệu Trị băng hà bà được vua Tự-Đức phong là Nghi Chương Thiên Hoàng Hậu, về sau lúc Đồng Khánh lên ngôi lại tôn bà là Từ-Dũ Bác Huệ Thái Hoàng Hậu.

Lịch sử và nhất là lịch sử Trung Quốc, đã để lại rất nhiều bài học về các mỹ nhân thường ỷ sắc lũng đoạn gây ra biết bao thảm trạng vô cùng tai hại cho nhà cho nước. Do đó rút kinh nghiệm, để tránh trước những tàn khốc có thể sảy ra, khi vua Thế Tổ lên ngôi đã cảnh tỉnh đăt ra những điều gọi là “tứ bất lập” để đề phòng, ngăn chặn những đổ vỡ, rắc rối cho triều chính. Mấy điều cấm kỵ “tứ bất lập”  đó là :

 

Không lập hoàng hậu.

Không chấm đỗ trạng nguyên

Không phong tể tướng

Không lập thái tử

 

Những chức tước hoàng hậu của các bà trên đây chỉ được phong khi vua đã băng hà hoặc khi chính các bà đã từ trần. Nó có tính cách tỏ lòng tôn kính, hiếu thảo của hậu bối, mang danh nghĩa tượng trưng chứ không thể ảnh hưởng gì dến sơn hà xã tắc. Riêng bà Nam-Phương đã được phong hoàng hậu ngay trong ngày cưới, đó là một biệt lệ, vì hoàn cảnh, thời thế,quan niệm đời sau đã đổi khác.

Dù không ảnh hưởng gì đến sơn hà xã tắc, nhưng vì bà Từ-Dũ là nhân vật cao niên, được tôn kính, là nhân chứng trải dài cả mấy triều đại nên hình ảnh bà không thể nào không thấp thoáng, dính dấp đâu đó ít nhiều. Thí dụ  như trong Việt Nam Sử Lược  ta đọc :“Phao ra rằng bà Từ-Dũ đã đồng ý rồi nên Tường và Thuyết sai một phái đoàn  đem kiệu ra Kim-Long rước Lã-Quốc-Công  Hồng-Dật vô Đại-Nội làm lễ đăng quang trở thành vua Hiệp-Hòa.”

Lại nữa, “Lấy chữ ký vào biên bản Tường và Thuyết sai đem trình Thái-Hậu Từ-Dũ, một mặt sai các võ sĩ bức tử vua Hiệp-Hòa và giết Trần-Tiến-Thành.”

Nguyễn văn Thành và Tôn Thất Thuyết là hai quan phụ chính lúc bấy giờ làm rất nhiều điều ngang ngược, chuyên quyền. Thuyết là quan văn làm tướng võ, hình dáng không được thanh tú, đi đứng không chững chạc, giao thiệp đối đáp không rành, xưa nay chỉ lấy quyền thế mà đè nén, chém giết làm oai. Tường là tay giao thiệp giỏi, có nhiều mưu cơ tài nghệ ứng biến. Thuyết đánh Pháp không lại, bỏ chạy sang Tầu cầu cứu, việc chẳng thành, sau ôm hận bỏ xác quê người. Còn Tường bị tất cả các quan ngoài Bắc ghét nên xúi người Pháp đầy sang hải đảo Haiti và cũng chết ở bên đó.

 

Nước Nam có bốn anh hùng,

Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu.

 

Vua Hiệp-Hòa tên Hồng-Dật em ruột vua Tự-Đức là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị lúc đó đã trưởng thành, khuôn mặt tuấn tú, đẹp trai,da trắng, không còn ngụ trong cung , tách ra ở riêng tại một phủ lớn nơi thành Kim-Long với tước Lạng-Quốc-Công, lấy sự ngao du phong cảnh làm thú phong lưu, chiều chiều vai mang chiếc đãy gấm, trong đựng thuốc điếu còn bên vai kia thì vắt chiếc khăn mầu hồng điều dạo chơi ngắm hồ sen để cho bà công chúa Đồng-Xuân có cảm tình mà đặt ra câu hát:

 

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,

Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai.

 

Hồng Dật nghe câu hát lấy làm đắc chí những mong sẽ sống như vậy suốt đời, thấy cảnh phế lập trong triều và sự chuyên quyền của hai ông Tường và Thuyết thì rất sợ bị làm vua mà tránh cũng không nổi.

Cũng may là xem nhừng dòng sử trên đây ai nấy đều dư biết là bà Từ-Dũ không thực sự can dự gì vào những chuyện như thế. Trong suốt đời nhân đức, hiền hòa của bà, bà chẳng hoạt động gì, có chăng chỉ là những cố gắng đem lại niềm vui nho nhỏ, sự tốt đẹp thoải mái, nhẹ nhàng cho mọi người gần gụi chung quanh, thí dụ, khi bà Nguyễn-thị-Tồn, người Lục-Tỉnh lặn lội ra tận đất thần kinh, vào ty Tam-Pháp,khuya ba hồi trống, “ Đội trạng” khiếu oan cho chồng là Bùi Hữu Nghĩa, lập tức vua Tự-Đức  cho họp các quan đại thần ở bộ Hình và  Đô Sát Viện để chung thẩm bản án,kết quả là Bùi-Hữu-Nghĩa nhờ vậy mà thoát bị tử hình. Đức Từ-Dũ hoàng thái hậu,cũng người Lục Tỉnh thấy vậy bèn cho vời “người đồng hương” vào bệ kiến, tặng bà Tồn tấm biển đề bốn chữ vàng “Liệt Phụ Khả Phong.” Cùng một cái võng….(theo Sự Muôn Năm Cũ của Trần-Văn-Tích).

Thời gian Tự Đức tại vị nước Nam bị giặc Pháp đánh chiếm nhiều nơi, đất đai bị mất dần dần, nhất là ở Gò Công, quê hương của mẹ ngài, nhà vua lúc nào cũng buồn rầu lo nghĩ, lầm lỳ, ít nói. Bà Từ-Dũ thấy thế đã truyền giao rằng hễ ai làm nhà vua bật cười sẽ được trọng thưởng !

Hôm ấy, lúc vua ngồi xem diễn tuồng tại duyệt thị đường (rạp hát trong cung) một kép hát tên Đội-Vung thủ vai hoàng đế, thấy Tự-Đức đang hút thuốc bèn chạy lại gần vua nói:

 

Còn thuốc cho tớ hít một hơi !

Nghe vậy nhà vua bật cười:

 

My táo gan hè!

Rồi Đội-Vung chẳng những không bị bắt tội bất kính mà còn được bà Từ-Dũ ban thưởng như đã hứa.

Sử chép vua Tự-Dức thờ mẹ rất có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn thì chầu cung, ngày lẻ thì nghị triều, trừ khi đi vắng hay khi se mình. Trong suốt 36 năm làm vua thường vẫn như thế, không sai chút nào.

Khi chầu cung thì ngài tâu lên chuyện này chuyện kia, việc nhà việc nước, tích xưa tích nay….Bà Từ-Dũ lắng nghe, thỉnh thoảng ban câu chi hay, ý nghĩa thì ngài biên ngay vào một cuốn giấy gọi là Từ-Huấn-Lục.

Một hôm rảnh việc nước , ngài ngự săn bắn tại rừng Thuận-Trực gặp phải khi nước lụt, còn hai ngày nữa thì có kỵ Đức Hiến-Tổ mà ngài chưa ngự về. Bà Từ-Dũ nóng ruột sai quan đại thần Nguyễn-Tri-Phương đi  rước. Nguyễn-Tri-Phương đi được nửa đường, vừa gặp thuyền ngự đang chèo lên, mà nước thì chẩy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối thuyền ngự mới tới bến, khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy Từ-Dũ xin chịu tội. Từ-Dũ ngồi quay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả. Ngài lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, bà Từ-Dũ xoay mặt ra, lấy tay hất cái roi mà ban rằng: “Thôi tha cho, đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kỵ”

Từ-Dủ ở trong cung Gia-Thọ, cung này xây năm Gia-Long thứ hai (1803) mới đầu có tên là cung Trường Thọ, Tự-Đức cho sửa sang lại với những hành lang dài có mái che để vua qua thăm mẹ và để bà có thể đến duyệt thị đường xem hát …v..v….rất tiện nghi vì ở Huế  về mùa đông nhiều lúc mưa dầm cả hỏn tuần lễ.

Thường các mệ là những bậc cung nữ khi xưa lúc trở về già hay xin vào ngụ trong lăng, tiện việc trông nom hương lửa hôm mai. Thời gian Tự-Đức băng hà, tất cả phi tần, có người mới mười sáu mười bẩy tuổi đều tình nguyện lên Khiêm Lăng để ở và thờ phượng ngài suốt đời. Những trường hợp tình nguyện trên đây có thể sẩy ra vì các cung nữ già thì sống ở ngoài đời đôi khi cũng gặp khó khăn, chán nản.; trẻ thì nông cạn chả biết làm sao để sống thực với những gì mình cần, mình muốn và như đứng trước đoạn đường cùng đã sống theo ý của mọi người chung quanh muốn, của xã hội cổ hủ muốn nên mới dấn thân vào chỗ tối tăm thầm lặng, vô ích, giết chọn cuộc đời xuân sắc.. Thật tội nghiệp cho những người này, những người từ lúc tiến cung cho đến khi vua băng hà có thể chưa được  “mình rồng” ấp ủ lần nào !!!

Bi kịch nơi thâm cung u uất phần lớn do sự hoang dâm vô độ của vua chúa thời phong kiến xa xưa mà chắc chắn các cung nữ rất nhiều người không muốn. Chứng cớ là nỗi lòng uẩn ức oán hận của họ đã được giải tỏ phần nào trong “Cung Oán Ngâm Khúc”:

 

Tay nguyệt-lão chẳng xe thì chớ,

Xe thế này có dở dang không!

Đang tay muốn dứt tơ hồng,

Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra

 

Nên thực tế nếu có cơ hội để vượt khỏi cảnh sống tù ngục chung thân này thì họ cũng thoát ly ngay chứ đâu thương tiếc gì , chẳng thế mà khi việc đánh Pháp thất bại năm 1885 lúc vua Hàm-Nghi xuất bôn, trên đường di tản, các bà phi cũng bỏ chốn khá nhiều.

Bà Từ-Dũ thì thật là đặc biệt, may mắn. Vị trí của bà không giống hẳn như các cung nữ già trẻ vừa kể trên đây. Theo cách tổ chức xếp đặt của triều đình, bà có dinh cơ riêng để ở bên trong hoàng thành. Thư ký riêng của bà là Lễ Tân Nguyễn-Nhược-Thị nguyên là một cung phi của vua Dực-Tông, tác giả tập Hạnh-Thục-Ca, ghi chép những chuyện ở trong triều lúc bấy giờ, nên đời nay nhớ ơn đặt tên cho một bến sông dọc theo con kinh bên quận 8 Sàigòn : Bến Nguyễn-Nhược-Thị. Bà còn có riêng một du thuyền lộng lẫy do một đoàn  chèo gồm các thị nữ đặt tên là du thuyền Yến Dư để tham dự vào dịp lễ hội du xuân hàng năm trên sông Hương mục đích cho vua và hoàng gia đi thăm lăng mộ của các vua chúa tiên triều nằm ở phía tây kinh thành Huế.

Từ sau Thiệu-Trị Băng hà, bà còn cả khoảng thời gian trên dưới 50 năm rảnh rỗi cũng không thấy bà có hoạt động nào về xã hội đặc biệt, hoặc  tạo dựng một cái gì để làm kỷ niệm lưu lại đời sau như xây một kiểng chùa chẳng hạn, lại nữa, con bà, vua Tự-Đức tại vị trong 36 năm nếu bà muốn làm một cái gì thì đâu đến nỗi khó khăn.

Khi vua Thánh-Tổ lên ngôi ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước, bởi vì :” Đạo phương tây là tà đạo làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục , cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo.” Về sau việc cấm đạo cứ giai dẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi. Bà Nam Phương Hoàng Hậu của Bảo-Đại là người sùng đạo, khi lấy chồng đã được thỏa thuận những điều kiện vẫn giữ đạo gốc, các con sinh ra phải được rửa tội theo đạo Thiên Chúa Giáo, hoàng đế và hoàng hậu ai giữ đạo nấy, không ai ràng buộc ai. Bà Từ-Dũ sống giữa khoảng thời gian này nhưng nhiều phần chắc chắn bà được kể là một phần tử không theo đạo Thiên chúa bởi vì bà nằm trong phe chủ trương cấm đạo.

Hầu như suốt đời bà Từ-Dũ ở trong cung, ngoại trừ  một lần, lúc đó khoảng 75 tuổi, khi đêm 4 rạng 5 tháng 7 năm 1885 Tôn-Thất-Thuyết bất thình lình đánh úp đồn Mang Cá của Pháp rồi thất bại khiến bà phải theo phái đoàn vua Hàm Nghi xa giá “tản cư” tới làng Kim-Long, qua chùa Thiêng

-Mụ, trở về Tràng Thi ra thành Quảng-Trị… đến đây bà nhất định không chịu “chạy” nữa. Mặt khác lại nhận được sớ của Nguyễn-Văn-Tường từ Huế gửi ra , nên sau gần nửa tháng nổi trôi, vất vả, Tuần phủ Trương Quang-Đản đã hộ tống rước xa giá để bà hồi cung còn vua Hàm Nghi thì bị Tôn-Thất-Thuyết tiếp tục đưa lên Tân-Sở.

Cũng như các cung tần mỹ nữ, mặc cho thời gian lặng lẽ trôi, mặc cho không gian thay đổi, bà Từ-Dũ sống như hờ hững với thế giới bên ngoài, nên bây giờ kể ra đây đoạn tường thuật  đặc biệt buổi yết kiến bà của đám người ngoại quốc nhân dịp toàn quyền VIAL thăm Huế do F. Baille ghi lại tưởng cũng là điều nên biết.

“Sau khi đi quanh co hơn hai mươi phút, qua những khu vườn bài trí thật rắc rối, có nhiều hành lang ngang dọc, chúng tôi được dẫn đến một mảnh sân khá rộng, giữa bốn bức tường cao. Hai toán nữ nhạc đứng ngang nhau, hòa tấu những âm thanh kỳ lạ. Chúng tôi cần thưa thật rằng tuổi tác và dáng điệu  của hầu hết các nhạc sĩ này khiến chúng tôi phải có lòng tôn kính, và theo quan niệm của người dân Paris hết sức ham thích tìm hiểu những việc lạ lùng, cũng phải giá lạnh cả tâm hồn. Vài phút chờ đợi trôi qua, chúng tôi vào một gian phòng hơi thấp. Phía trong phòng chúng tôi thấy một bức sáo làm bằng thanh tre, vót thật mỏng, vẽ hình rồng nhiều mầu. Đức vua mặc y phục đại triều, quỳ gần đó, hai tay khoanh trước ngực. Hoàng thái hậu ngồi phía sau bức sáo giữa cảnh nửa tối nửa sáng như trong đền thờ. Nhà vua ngỏ lời vấn an bà rồi đến chúng tôi. “

“Tiếp đó chúng tôi nghe tiếng nói, đúng hơn là một giọng nói thầm, khó có thể phân biệt đáp lại. Thình lình bức sáo được chậm chạp kéo lên như bức màn trên sân khấu, chúng tôi thấy người ngồi bên trong im lìm, không động đậy, mình mặc áo dài mầu vàng của hoàng tộc, mặt nhìn thẳng, nước da trắng vàng như mầu ngà   của bức tượng chúa…Hình bóng thoáng qua như một ảo ảnh không có gì thêm. Bức sáo hạ xuống lập tức thật nhanh và khô khan, nhiều lời  chúc tụng tiếp tục tung hô. Đức vua hướng vào bức màn lạy rất lâu.”

Buổi yết kiến đến đây là chấm dứt. Buổi yết kiến chỉ có vậy. Tuy là thời xưa, tuy là giữa những người khác mầu da, tiếng nói, từ phương trời xa lạ, buổi yết kiến thật nghèo nàn, nghe như nó vẫn còn thiếu sót rất nhiều xã giao, nó vẫn còn quá ngăn cách cho dù bà Từ-Dũ có ban vài lời. “Tiếp đó chúng tôi nghe tiếng nói, đúng hơn là một giọng nói thầm khó có thể phân biệt đáp lại.” F. Baille nói đúng ! Mà ông là người ngoại quốc thì làm sao nghe, phân biệt, hiểu mà đáp lại được ! Nên ông cũng chẳng ghi lại được, khiến cho không những ông mà ngay cả mấy người Việt-Nam tò mò về sau đọc bài tường thuật của ông cũng lấy làm tiếc là không biết lúc đó bà Từ-Dũ đã nói gì, còn nói giọng địa phương Nam kỳ hay vì thời gian, vì gần gụi đã pha giọng quê chồng.

Biết làm sao khác được, một cách khách quan, cả chủ lẫn khách, vậy cũng là cởi mở và thiện chí lắm rồi. Cái phong cách lề lối hành động của xã hội ấy cần phải có thời gian mới từ từ thay đổi. Còn về phía “ những người dân Paris” tuy không thỏa mãn hoàn toàn nhưng chắc cũng hài lòng và hiểu rõ cái đặc ân mà Hoàng Thái Hậu đã dành cho.

Thực ra thì bà Từ-Dũ cũng chỉ là một người bình thường, sinh ra trong một gia đình cao quý, sang trọng, rồi hoàn cảnh lại đưa đẩy vào một vị trí cao quý sang trọng hơn. Trong lịch sử Việt-Nam cũng đã có nhiều người đàn bà như thế. Bà là người đẹp! Dĩ nhiên! Là một hình ảnh lý tưởng, mơ ước của xã hội bấy giờ. Với các đức tính hy sinh, mẫu mực trung trinh, đức hạnh…đã làm hãnh diện cho quê hương bản quán và cho tộc họ mãi mãi về sau.

Và còn mãi mãi về sau, nơi thế miếu trong hoàng thành Huế, với những cây tùng vạn niên, với chín chiếc đỉnh đồng xếp hàng ngạo nghễ  thi gan cùng tuế nguyệt, thần vị của bà Từ-Dũ đã được đặt thờ trên án cùng với thần vị của vua Thiệu-Trị bên cạnh những án thờ các vị vua và các hoàng hậu khác của triều đại nhà Nguyễn, những người thiên cổ, những người đã viết nên lịch sử Việt-Nam từ hơn hai trăm năm cũ cho tới thời cận đại bây giờ.

Đến đây để kết thúc về bà Từ-Dũ xin ghi lại bài thơ  Đường luật của thi sĩ Chiêu-Đăng, bạn với kẻ viết bài tiểu khảo này, một người cùng giòng họ với thượng thư Phạm-Đăng-Hưng ngày trước.

 

Gò Công Quê Mẹ.

Quê mẹ đông bằng cạnh biển đông

Là gò khổng tước lắm chim công

Thần tiên nẩy nở trang hào kiệt

Thánh địa luân lưu sử Lạc Hồng

Trương-Định lừng danh cùng đất nước

Bình Tây nổi tiếng khắp non sông

Đức bà Từ-Dũ kề thiên tử

Tên tuổi muôn đời rạng tổ tông.

Chiêu-Đăng.

 

 Chú-thích  (1)  Chữ Dũ nguyên thủy từ tiếng Trung-Hoa : Yu như Wang Yu ,  Tên một tài tử màn bạc Hồng-Kông. Yu có nghĩa lông chim.  Người miền nam, nhất là những người gốc Hoa ưa đặt tên là Yu rồi chuyển hệ từ Hoa ngữ sang Việt ngữ thành Dũ. Chữ Hán không có danh từ Dũ. Chữ Nôm tiếng Dũ có nghĩa là Phủi thí dụ dũ sạch bụi trần. Cũng xin đừng nhầm Dũ với Vũ  Như trong quan vũ, quan võ, khiêu vũ…v….v….

(Theo Nguyên Nguyên, Báo Đại Chúng số 119 tháng 5-2003 (2) Phạm-Đăng-Hưng sinh năm 1764 con của Phạm-Đăng-Long  và bà Phạm văn thị Tánh, ông là người thông minh hiếu học, tính tình cương trực và có ý chí cao cả. Sinh ra và trưởng thành vào buổi loạn ly, nhưng một lòng nuôi chí lập thân,  năm 1784 ông thi đậu tam trường được vua Gia-Long bổ nhiệm chức lễ sinh ở phủ, từ đó trải bao bước thăng trầm Phạm-Đăng-Hưng vẫn một lòng thờ vua giúp nước. Năm 1815 ông được tấn phong Lễ bộ thượng thư, năm 1825 ông bị bệnh rồi qua đời thọ 61 tuổi. Ong có bốn người con trai đều làm quan to. Vì kính tài, trọng đức của ông nên vua Minh-Mạng đã cùng ông kết nghĩa thông gia, gả công chúa Cho lễ bộ lang trung Phạm-Đăng-Thuật, lại cho hoàng tử Miên-Tông kết duyên cùng con gái ông là Phạm-thị-Hằng. (3) Trước khi sanh Hồng-Nhậm bà đã có hai công chúa:  Công  Công chúa Uyên – Ý sinh năm At-Dậu 1825. (Theo Phúc Tộc Thế Phả trang 280 và 281 tài liệu do  Nguyên Hương Nguyễn Cúc, tác giả Sài-Gòn 300 năm cũ  Gửi cho .) Nhân tiện xin cám ơn học giả Nguyễn-Cúc.  (4)  Tiện đây người viết xin cập nhật thêm một chi tiết, là sau bao năm yên nghỉ dưới mộ sâu, mới rồi, quân gian lại nhẫn tâm khai quật lăng mộ của bà lên để hôi của. Vào ngày 18 tháng 5 năm 1983 sáu kẻ gian đã bị bắt và rất may mắn số vàng bạc ngọc ngà đã dùng làm nữ trang cùng bà nằm dưới lòng đất đã thu hồi lại được. Nhưng cũng rất không may mắn là số nữ trang ấy người ta đã chẳng trân trọng lưu giữ  trong viện bảo tàng để kẻ đời sau có dịp chiêm ngưỡng, có dịp học hỏi về nền mỹ thuật , tài khéo của cổ nhân mà quyết định đem nấu chẩy rồi phát mại lấy số tiền  23.362.122$ 00 (giá vàng 2.300.700$00 một lượng.)

 

 

 

up

AcDieu

Tin vui

Tin Buồn

Bài Củ

07-2014

06-2014

05-2014

04-2014

03-2014

02-2014

01-2014

RFI
Nguoi_Viet
RFA
Quan_Su_VNCH
Quân Sử VNCH
Voa_tieng_Viet
BBc_Tieng_Viet
Dan_lam_bao

TIME